Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

Tình bạn giữa 4 nhà giáo, nhà văn, học giả nhiều người biết đến

Học giả Nguyễn Hiến Lê ngại giao du và rất ít bạn, nhưng có mấy người bạn thân là Đông Hồ, Giản Chi, Hư Chu. Cả bốn ông ngoài là nhà văn nổi tiếng, đều gắn bó với nghề giáo.

Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), có biệt hiệu và bút danh là Lộc Đình, nguyên quán tại Quảng Oai, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Nội), là một nhà văn, học giả thâm uyên, uy tín.

Trong thế cuộc trên 40 năm cầm bút, ông đã cho ra đời khối lượng thành quả khổng lồ với trên 100 đầu sách, về hầu hết ngành: văn chương, tiếng nói, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người...

Nhà thơ Đông Hồ (Lâm Tấn Phác, 1906-1969) lớn hơn ông Lê 6 tuổi, học giả Giản Chi (Nguyễn Hữu Văn, 1904-2005) hơn ông Lê 8 tuổi, còn nhà văn Hư Chu (Nguyễn Kỳ Thụy, 1922-1972) nhỏ nhắn hơn ông Lê 10 tuổi.

Tuy Đông Hồ là người miền Nam (ông sinh trưởng ở Hà Tiên) nhưng từ gia phong tới giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, nên ông Lê cảm thấy gần gũi, còn nhì bạn người còn lại đều giống ông Lê, là người gốc miền Bắc tham gia sinh sống tại miền Nam.

Theo Nguyễn Hiến Lê, ba người bạn thân của ông có điểm thông thường là: "Cả ba bạn đó đều nhân thức chữ Hán, đều giữ được ít phổ quát phong cách nhà Nho. Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình 'đạm nhược thuỷ' (đạm bạc như nước) tuy thân mà không niềm nở, ồn ào".

Đương nhiên, Nguyễn Hiến Lê lại có điểm đặc biệt với ba người bạn của chính mình: "Tôi xét chẳng phải là một nghệ sĩ, không có chút nghệ sĩ tính nào mà ba bạn thân của tôi đều là nghệ sĩ".

Tinh ban giua 4 nha giao, nha van, hoc gia noi tieng hinh anh 1
Sách Hồi ký Nguyễn Hiến Lê mách nhỏ quãng thời điểm dạy học của tác giả.

Nghề giáo của bốn nhà văn

Nếu khách hàng nào đã đọc Hồi ký Nguyễn Hiến Lê sẽ nhân thức, dù tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính và có hơn 10 năm hành nghề dò xét thủy lợi khắp miền Tây Nam Bộ, nhưng sau Cách mạng bốn tuần Tám, do tình cảnh đi di tản sống một chính mình, ông đã có một thời gian dạy học tại Long Xuyên, An Giang.

Nguyễn Hiến Lê mở đầu dạy học tại gia, theo đề xuất của ông quận trưởng Nguyễn Ngọc Thơ (người sau này là Phó Tổng thống, rồi Thủ tướng chính quyền VNCH) dạy kèm nhị môn Toán và Pháp văn cho con và cháu của ông ta, sau đó đa dạng công chức chính quyền biết tiếng cũng đưa con lại nhờ dạy.

"Tôi nhiều người biết đến dạy chuyên nghiệp và đầu năm học sau số học sinh xin học rất đông, tôi chỉ kiếm được nhị chục em thôi", ông Lê viết trong hồi ký.

Khi ông Thơ lên khiến cho thức giấc trưởng Long Xuyên, ông mở trường Thoại Ngọc Hầu và mời Nguyễn Hiến Lê dạy thay một thầy giáo khác được nhân tố chuyển. Vì tình bạn với cả hai người, nên ông Lê đã tham gia dạy các môn Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau dạy thêm cả Hán văn cho rộng rãi lớp trong khoảng năm thứ Tư đến năm thứ Nhị (tương đương lớp 7-9 chương trình bây chừ). Ông dạy học tại đây trong 3 năm, trong khoảng 1950-1953.

Ý kiến giáo dục của Nguyễn Hiến Lê được ông biểu thị rõ rệt: "Năm nào tôi cũng buộc phải với hiệu trưởng cho mỗi lớp dăm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có nhẽ vì không muốn làm phật lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy trái với nguyên tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không nắm bắt thì đã bị mất đi thời giờ nhưng mà chán".

Thi sĩ Đông Hồ là một thi sĩ có tiếng trên văn tập thể từ cuối những năm 1920. Ông có cuộc đời hoạt động văn hóa sôi động, trong khoảng hợp tác với Nam Phong tạp chí, xuất bản báo Sống ở Sài Gòn... Năm 1950, ông lên Sài Gòn lập nhà xuất bạn dạng Bốn Phương và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang.

Đông Hồ tham gia dạy học từ năm 1965, khi được mời đảm nhiệm môn Văn học tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và gắn bó với bục giảng cho tới tận phút cuối cuộc thế.

Nguyễn Hiến Lê tụng ca: "Cái chết của ông thật đẹp: Đương ngâm thơ về Trưng Vương của Ngân Giang ở giảng tuyến phố Văn khoa thì đứt gân máu, té ngất trong cánh tay học sinh, hôn mê, đưa lại dưỡng trục đường rồi về nhà, bảy giờ tối tắt hơi".

"Ông có truyền thống nhà Nho, chỉ thích dạy học, truyền lòng yêu tiếng Việt cho những thanh niên tuấn tú", ông Lê viết về nhà thơ, tác giả thi phẩm Cô gái xuân.

Tinh ban giua 4 nha giao, nha van, hoc gia noi tieng hinh anh 2
Thầy Giản Chi (giữa) cùng sinh viên Đại học Văn khoa Huế.

Giải Chi - Nguyễn Hữu Văn có nhiều điểm tầm thường với Nguyễn Hiến Lê hơn. Ông quê gốc ở làng Hạ Yên ổn Quyết (làng Cót, Cầu Giấy, Hà Nội hiện thời) cũng tốt nghiệp Cao đẳng Công chính Thủ đô và sống thế cuộc công chức ngành bưu điện rong ruổi khắp rộng rãi địa phương như Sơn La, Lai Châu, Hải Dương, sau đó là miền Nam.

Đương nhiên, trong khoảng năm 1965, ông gắn bó với nghề dạy học, khi tham gia giảng dạy triết học cổ Trung Hoa và văn chương Hán Nôm Việt Nam tại các trường Đại học Văn khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn), Đại học Huế. Mãi đến năm 1977, khi đã 74 tuổi, ông mới nghỉ hưu.

Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê là tác giả phổ biến của một số cuốn sách tìm hiểu trị giá như Đại cương triết học China, Hàn Phi Tử, Tuân Tử và cùng dịch Chiến quốc sách.

Năm 1953 lên Sài Gòn Nguyến Hiến Lê mới gặp mặt mặt nhà văn Hư Chu. Hư Chu sinh năm 1923 ở làng Hành Thiện (Nam Định), một làng nhiều người biết đến về học hành, đỗ đạt. Là con một cụ cử, Hư Chu sớm thôi học chữ Pháp, về quê học thêm chữ Hán rồi trôi dạt, làm khá phổ thông nghề: bán buôn, nuôi gà, thư ký, thầu rừng, dạy học, nhạo báng trà, nghề nào cũng thất bại. Năm 1950, ông mới vào Sài Gòn thử nghề cầm bút, viết truyện “feuilleton” cho tờ Việt Thanh và dần nổi danh.

Khi tờ Việt Thanh đình bạn dạng, ông túng bấn mà vẫn vui. Trong khoảng năm 1955, ông dạy Sử Địa cho một số trường trung học tư ở Sài Gòn, đời sống ông từ đó mới bắt đầu thong thả hơn.

Nguyễn Hiến Lê nhận xét: "Ông thích dạy học, được học sinh và đồng đội mến vì tính nết hiền lành, nhã, thành thực".

Tình tri kỷ của các nhà văn hóa

Với Đông Hồ, mỗi khi viết được bài nào khoái chí thì nhà thơ lựa hai phiên bản in riêng, đích thân ông sửa lỗi in rồi đóng lại thành tập mỏng tanh, đóng dấu son “Đông Thuỷ cổ lỗ nguyệt” (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm ba chữ thuỷ, cổ hủ và nguyệt), rồi gửi cho Nguyễn Hiến Lê hai phiên bản, một phiên bản để tham gia tủ sách của ông ở Long Xuyên, một vào tủ sách Sài Gòn.

Đọc văn Nguyễn Hiến Lê, thấy cuốn nào, bài nào hợp ý thì ông lại thăm hoặc viết thư đánh giá tốt một số lời thực tình.

Khi nghe tin Đông Hồ mệnh chung (25/3/1969), Nguyễn Hiến Lê về nhà viết ngay bài Khóc chưng Đông Hồ. Bài đó đăng kịp trên báo Bách Khoa số 1/4/69. Sau đó, Nguyễn Hiến Lê còn viết đông đảo 4 bài nữa về người bạn chính mình. Đông đảo những bài đó đều nhắc tới tương lai văn thơ của ông.

Tinh ban giua 4 nha giao, nha van, hoc gia noi tieng hinh anh 3
Nhà thơ Đông Hồ.

Dù Đông Hồ yêu thích dạy học, nhưng ông lại khuyên Nguyễn Hiến Lê chỉ nên tập trung tham gia viết lách, không quay lại với nghề giáo. Trong một cuốn Đời viết văn của tôi, Nguyễn Hiến Lê viết về Đông Hồ: "Tôi cũng nhận ông là tri kỷ của tôi khi ông nghe tin người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, ông vội vàng sáng sớm trong khoảng trong Gia Định lại nhà tôi để khuyên tôi đừng nhận dạy vì mất thời giờ lắm".

Hư Chu chơi thân với Nguyễn Hiến Lê ngay sau khi ông Lê lên Sài Gòn, năm 1954 khi ông Lê tạo dựng nhà xuất bạn dạng, Hư Chu là người lái chiếc xe máy dầu Peugeot đưa ông Lê đến các nhà in, cùng giao sách, thu tiền, sửa ấn cảo… "Có lời, chúng tôi chia nhau để sống", Nguyễn Hiến Lê nhớ lại.

Tuy hai người rất quý mến nhau, nhưng từ khi Hư Chu mở màn dạy học, ông và ông Lê mỗi năm chỉ gặp nhau một số lần.

Khi Hư Chu mất lúc mới 50 tuổi, Nguyễn Hiến Lê cũng có bài viết đã đánh dấu tương lai của ông mang tựa đề Hư Chu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 392, tháng 6/1973. Bài viết "ngắn mà vừa đủ, khách hàng văn cho là cảm động".

Với học giả Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê bình chọn về buộc phải cùng viết bộ Đại cương triết học TQuốc như sau: "Nhờ có ông tôi mới khỏe mạnh bước vào ngành cũ rích học Trung Quốc, và nhờ tôi có thúc đẩy từ đó ông mới sáng tác mạnh. Thực là một duyên tiền định có lẽ chưa hề thấy trong văn chương sử quốc gia trong khoảng đầu thế kỉ tới nay". Cuốn Thượng bộ Đại cương triết học China của nhì ông được chính quyền Sài Gòn dự định trao giải thưởng quốc gia, nhưng các ông khước từ nhận giải.

Nguyễn Hiến Lê cũng coi Giản Chi là bạn tương tri. Khi có người bàn với Giản Chi về việc trưng bày ông Lê kiếm được giải Tuyên dương tương lai Văn chương năm 1973 của chính quyền VNCH, nắm bắt bạn, Giản Chi gạt đi, khẳng định: “Bác ấy không chịu đâu, đừng trưng bày”.

Nguyễn Hiến Lê đúc kết về tình bạn của bốn người trong Đời viết văn của tôi: "Mới quen thì chỉ kính nhau thôi, lần lần càng hiểu nhau thì càng quý mến nhau hơn, mặc dầu có khi một số tháng mới lại thăm nhau một lần. Chạm mặt nhau chúng tôi nói chuyện về văn thơ phổ thông nhất, rất ít khi tâm tình về chuyện riêng. Mỗi người có một lối sống riêng, những sở thích riêng, chúng tôi biết tôn trọng những cái đó của nhau. Ví như thấy thật cần phải khuyên nhau một lời thì chỉ nói phớt qua, mà giả dụ bạn không nghe thôi. Tôi nghĩ miễn thành thực với nhau và giữ được tư cách là đủ, ngoài ra không cần nhân thức tới".

Ngày 20/11 Nhà giáo Nhà văn Nguyễn Hiến Lê Giản Chi Hư Chu Đông Hồ


Xem nhiều hơn: tin tức mới nhất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét