Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2017

Điều hành quy hoạch và phát triển kiến trúc bây giờ |

Đối với công việc quản lý quy hoạch và sản xuất kiến trúc hiện nay, công việc lý luận phê bình kiến trúc có vai trò đóng góp hiệu quả rất cần thiết. Đương nhiên, đa số các cuộc mua bán thường chỉ chú tâm hình thức của những công trình có quy mô lớn, tại vị trí bắt mắt thấy. Những nhà cửa còn lại thường không được giới phê bình ngó tới.

Chính yếu tố đó mới là một phần nguồn cội gây nên nỗi nhức nhối của quản lý quy hoạch thị trấn. Những cuộc luận bàn cũng chưa đổi mới được gì đa dạng cho việc làm mới, khiến cho phiên bản sắc kiến trúc Việt Nam được tôn vinh. Như thế có thể coi là công việc phê bình đang đi trơ thổ địa tiêu chí cần có?


Kiến trúc văn phòng “Kim tự tháp” tòa nhà Lilama (Hải Dương).

Ba mươi năm qua cũng chính là những năm đổi mới trọn vẹn trong nền kinh tế nước ta. Những kết quả mập mạp của rộng rãi mặt trong đời sống kinh tế, xã hội là rất hoành tráng. Công việc quản lý quy hoạch kiến trúc trong lĩnh vực xây dựng đã khá rõ nét cả trong nhận thức cũng như thực tế đan cài cả thành quả với hạn chế giễu. Đó là:

1. Diện mạo thị trấn đã nổi bật theo chiều hướng tích cực cả về cơ chế kiến trúc, tính văn minh, kĩ nghệ xây dựng, tính hội nhập và khác biệt tính tuân thủ quy định quy định nhà nước về quy chuẩn, tiêu chuẩn xây đắp, tiêu chuẩn bình yên, kiểm soát an ninh môi trường. ngừng thi côngĐây là những nhà cửa công cộng, những tuyến thị trấn mới được xuất hiện ở những vị trí quan trọng, theo quy hoạch tạo ra đô thị. Những khu đô thị mới, những khu kĩ nghệ, khu du lịch, nghỉ ngơi trên cả nước thi hành khá tốt về chất lượng tòa tháp cũng như đồng bộ hoá kĩ thuật hạ tầng theo yêu cầu sử dụng đã góp phần cải thiện vẻ đẹp mới và tính tân tiến của thành phố.

Nhà ở của dân chúng tự xây và bộ phận nhà đất nông thôn tại một vài tuyến con đường mới tạo dựng, khu vực dân cư các thị trấn, thị trấn ngoại ô, vùng ven đô và khu vực thành phố hoá, khu giãn dân; các khu tái định cư được chính quyền giao đất khiến nhà ở thì tình hình xây đắp còn tinh vi, thiếu điều hành và chưa được định hướng rõ ràng.

Việc không tuân thủ các quy định trong xây đắp khá thông thường, bộ máy điều hành của nhà nước có phần thả lỏng, thiếu chỉ dẫn chấp hành. Bên cạnh thực thi dự án, việc giải quyết vi phạm lại không nghiêm minh, không kịp thời để lại gương mặt thành phố khá lộn xộn, không hài hoà, thiếu tính thống nhất trong tổng thành phố.


Kiến trúc truyền thống cần được nhận diện và bảo tồn trong thành phố duyệt công việc lý luận phê bình kiến trúc.

Tại khu vực nông thôn, việc xây dựng khá tuỳ tiện thể, không có hướng dẫn định hướng cho kiến trúc trong xây đắp nhà ở vùng quê cho cư dân. Bởi vậy, cấu trúc làng phố đã biến dạng, kiến trúc pha tạp đang khiến mất dần bản sắc vn. Tuy nhiên, cũng phải kiếm được thức một thực tại và công bình là trong thời kỳ này, tính nghĩa vụ của các Bộ, ngành nghề, các tỉnh giấc, thành phố chưa được phân công rõ, văn bản pháp quy triển khai xác định phương hướng chưa đi thẳng vào nội dung chi tiết, chưa đủ sâu về góc cạnh thực tiễn. Về biện pháp không khả thi, tuyên truyền thông thường không hoạt động, năng lực cán bộ quản lí thấp, hàng ngũ rất mỏng manh, trách nhiệm của chính quyền các ngành chưa rõ ràng; nghĩa vụ của công ty chuyên môn kiến trúc, quy hoạch, xây dựng, giải đáp kiến trúc và nhà thầu chưa được luật hoá. Những ý kiến của cộng đồng, các hội nghề nghiệp chưa được thu nạp trang nghiêm. Các trường đào tạo kiến trúc sư mở mang về số lượng, nhưng chất lượng huấn luyện thấp. Công tác lý luận phê bình chưa đủ tầm, rời rạc yếu đuối. Hiện tượng khiếp sợ về chính sách trong điều hành làm cho kiến trúc thời kỳ năm 2000 tới nay, tạo ra còn có phần tuỳ một thể, thiếu chuẩn mực. Các địa phương rất gian khổ trong nguyên lý lãnh đạo định hướng chi tiết cho địa phương như thế nào, nguồn lực nào để chấp hành, nghĩa vụ thuộc về người nào đều không rõ. Mặc dầu đã có lãnh đạo của Chính phủ, cũng như văn bản quy phạm quy định chỉ dẫn, mẫu quy chế nhạo về điều hành kiến trúc thành phố, quản lý môi trường cảnh quan nhưng nhiều thức giấc, thị trấn không thể tổng kết đánh giá được những gì đã diễn ra đối với kiến trúc trên địa bàn do bản thân quản lý.

2. Trong những thập niên đến, thách thức lớn về thay đổi khí hậu thế giới càng rõ rệt hơn. vietnam là một trong những non sông chịu tác động đa dạng nhất. Vì vậy, sản xuất kiến trúc chưa đáp ứng tài năng ứng phó với trạng thái thế giới hot lên, thiên tai khắc nghiệt hơn, hiện trạng nước biển dâng cao ở diện rộng tại 29 tỉnh vùng duyên hải và khu vực chịu tác động trên khuôn khổ cả nước.

3. Vận tốc tăng dân số thị trấn vietnam tăng cường, đòi hỏi về xây đắp lớn, quỹ đất dành cho sản xuất thành phố đang bị thu nhỏ, bởi vậy kiến tạo kiến trúc cần được đặt ra những yêu cầu mới phù hợp hơn.

4. Các khu thị trấn mới, các khu ở trong đô thị sinh ra rất nhanh là một hình ảnh mới cho các đô thị nhưng cũng là thách thức cho những đô thị cũ. Tại đó thiếu tính nối kết không gian, không hợp nhất về hình thái kiến trúc rất cần một định hướng trong quy hoạch xây đắp và sản xuất thị trấn và luật pháp mới trong thiết kế kiến trúc.

5. Trong thập kỷ vừa mới đây khoa học nhân loại đã có bước dài, khoa học vận dụng trong việc kiến tạo, dùng không gian mới, nguyên liệu mới, kết cấu mới đặt ra cho công việc kiến tạo, xây dựng nhà cửa phải có qui định thích hợp nhằm dè xẻn thời điểm, tài nguyên, đất đai và thân thương không gian nhưng thực tiễn công tác quy hoạch chưa sát yêu cầu.

6. Vùng quê vietnam hiện tại chiếm giữ khoảng 63% dân số cả nước, nơi lưu giữ phần nhiều những trị giá văn hoá truyền thống, đang bị xáo động bởi làn sóng đô thị hoá, sự biến đổi hình thái kiến trúc vùng quê đã có những bộc lộ thụ động cần được chỉ dẫn điều tiết cho phù hợp. Xây đắp nông thôn mới theo những mục tiêu do Chính phủ pháp luật là hiện đại, tiến bộ, tiến bộ. Do vậy rất cần đổi mới hình thức, nội dung trong quy hoạch xây đắp vùng quê mới. Thiết kế kiến trúc cũng cần yếu tố chỉnh theo phương châm, hướng thay đổi, tiêu chuẩn mới, tân tiến, tiến bộ, bảo tồn giá trị nghề truyền thống đang tiềm tàng trong nông thôn.

7. Để công việc quy hoạch, phát hành kiến trúc bền vững đi tham gia thực tại và khả thi cần có sự nhập cuộc, phân giao nhiệm vụ cho bộ ngành, các tỉnh, thành phố, các hội nghề nghiệp thi hành. Cần chỉ ra nguồn lực chấp hành, Chính phủ, UBND các ngành có kế hoạch bảo đảm nguồn vốn, phân bổ sử dụng kinh phí tới các chương trình chấp hành định hướng. Mặt khác, chính quyền phải duy trì việc doanh nghiệp kiểm tra, tổng kết giai đoạn về thi hành định hướng sản xuất kiến trúc.

8. Việc xây dựng, ban hành văn bạn dạng điều hành phát hành Kiến trúc yên cầu có tính vội vã. Việc thể chế nhạo hoá phát hành Kiến trúc xanh, Đô thị xanh phải đặt ra cho nhiệm vụ trước mắt và vĩnh viễn cho các Bộ, ngành và địa phương. Quy nhạo báng quản lý quy hoạch, cảnh quan kiến trúc là nhiệm vụ cụ thể, là giải pháp thiết thực được Chính phủ xây đắp, ban hành trong các năm gần đây nhưng chưa được cập nhật tham gia nhiệm vụ nhiều lần của chính quyền các địa phương.

9. Công việc xuất bạn dạng, ấn phẩm về kiến trúc trong và ngoài nước cũng như thông thường chế độ qui định, tuyên truyền chưa tạo dựng chuyên đề: “Không gian kiến trúc và khung cảnh sống” trên các dụng cụ tin tức quần chúng. Vì thế quan trọng lập chương trình truyền hình về định hướng kiến trúc vietnam rất quan trọng để chỉ dẫn dư luận, nâng cao kiếm được thức để người dân tự giác thực hiện theo định hướng.

10. Quy hoạch xây dựng là hạ tầng để điều hành phát triển các thành phố, khu cư dân vùng quê, tạo dựng không gian sống phù hợp cho dân cư và là tiền đề hình thành và phát hành kiến trúc, cảnh quan. Do địa điểm và tầm cần thiết của quy hoạch xây dựng, trong những năm qua, công việc này đã được Nhà nước đon đả đầu tư, lãnh đạo đạt kết quả khá tốt.

Cụ thể: Trong gần 30 năm, trong khoảng 1990 đến nay, vietnam có đến 860 đô thị, thị thị trấn và gần 30 đô thị mới đã có quy hoạch phổ biến. Trong đó đã có phổ thông đồ án quy hoạch phổ biến tới năm 2020 đã được điều chỉnh. Quy hoạch tầm thường 560 đô thị về cơ bản đã và đang được UBND tỉnh giấc, thành phố trực thuộc Trung ương công ty lập, xét thông qua. Quy hoạch chi tiết 70 khu công nghiệp, các khu công dụng chính trong thành phố đã được lập, xét ưng chuẩn để làm hạ tầng khai triển đầu tư xây dựng và quản lý thị trấn.

Đối với vùng đô thị lớn, do thuộc tính đa lĩnh vực và liên vùng ngoài quy hoạch phổ biến Nhà nước đã cho lập quy hoạch xây đắp chuyên ngành. Hơn 9.000 thị trấn trên địa bàn cả nước cũng đang được chỉ đạo lập quy hoạch xây dựng vùng quê, trong số đó Nhà nước khác biệt ân cần dành đầu tiên và có chương trình riêng cho các dự án quy hoạch xây dựng các trọng tâm phố, cụm thị trấn và các khu dân cư trong vùng bị ngập lũ bị thiên tai bắt nạt nạt.

Theo lãnh đạo của Chính phủ và chỉ dẫn của Bộ Xây đắp, quy hoạch toàn cục phát hành chuỗi hệ thống thành phố, khu dân cư vùng quê tại các tỉnh giấc, đô thị trực thuộc Trung ương đang được lập, xét phê chuẩn để chi tiết hoá Xác định phương hướng quy hoạch toàn thể tạo ra thành phố cả nước tới năm 2020, khiến cơ sở để nhân tố chỉnh quy hoạch xây dựng thị trấn, khu dân cư vùng quê và chỉ đạo việc đầu tư phát triển kết cấu cơ sở vật chất, bảo vệ môi trường trên toàn quốc.

11. Về cắt cử, phân cấp trong quản lý thị trấn. Trên cơ sở chuỗi hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước pháp quyền Thị trấn hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được hoàn thành. Quyền và bổn phận của UBND, HĐND các cấp cũng đã được xác định rõ tại các văn bạn dạng quy phạm luật pháp của Nhà nước.

UBND các tỉnh giấc, thị trấn trực thuộc Trung ương đã rất coi trọng việc nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước về quy hoạch xây dựng và kiến trúc thành phố. Ở TP Hà Nội và TP.HCM, Chính phủ đã cho phép vận dụng thể nghiệm mô hình Kiến trúc sư trưởng đô thị từ năm 1992 để thống nhất quản lý kiến trúc và quy hoạch trên địa bàn. Sau 10 năm hoạt động và thực nghiệm thử nghiệm, chủ trương này có những thành công và vài pháp luật công dụng chưa phù hợp. Đến năm 2002 đã thay thế bằng Sở Quy hoạch, Kiến trúc cho 2 TP Hà Nội và TP.HCM.

Tại các thức giấc, thành phố trực thuộc Trung ương, các công ty tổ chức giải đáp chuyên môn như Viện Quy hoạch xây dựng, các tổ chức kinh doanh tư vấn xây dựng, Hội đồng kiến trúc - quy hoạch và các Hội nghề nghiệp đã xây dừng và được tạo điều kiện thuận tiện trong hoạt động để có thể trả lời cho Nhà nước hoặc nhà đầu tư chọn được những mô phỏng, giải pháp phát triển kiến trúc hợp lý nhất.

Tại các thành phố, vai trò của chính quyền thị trấn cũng đã được nâng cao, nhất là trong việc doanh nghiệp thực hiện quy hoạch và luật pháp, khắc phục các giấy má hành chính, cung cấp hạ tầng cơ sở vật chất và đảm bảo đơn côi tự xây đắp trong thành phố. Hiệp hội thị trấn các tỉnh giấc lỵ đã được xây đắp nhằm mua bán các trải nghiệm và phối thích hợp các hành động thông thường trong điều hành và tạo ra thành phố.

Những thành tích giải quyết được trong lĩnh vực phát triển và điều hành kiến trúc, quy hoạch trong thời điểm qua trước tiên là do chính sách của Nhà nước đã tạo tiền đề hấp dẫn phổ biến tuấn kiệt, vật lực vào sự nghiệp tạo ra đô thị, khu dân cư vùng quê. Trong đó có sự tham gia hăng hái của số đông, của các kiến trúc sư vào giai đoạn thông minh, giữ vững sản xuất, tạo lập môi trường sống. Sự nỗ lực to đùng của giới kiến trúc sư có vốn sống, giầu lòng yêu nghề, giữ được phẩm chất đạo đức, kiên cường quan điểm sáng tạo dịch vụ dân chúng, phục vụ sự nghiệp cách mạng, đã đóng góp cho quốc gia những công trình kiến trúc có giá trị.

12. Bên cạnh những thắng lợi đạt được, công tác sản xuất và điều hành kiến trúc trong thời điểm qua còn biểu lộ phổ quát sinh tồn và yếu kém:

- Tại các thị trấn, trơ trẽn tự kiến trúc của toàn thị trấn nói bình thường và từng trục đường thị trấn, khu xã nói riêng chưa được thiết lập. Sự phát hành thiếu một định hướng thống nhất và sự thiếu giữ vững nghiêm ngặt đã làm cho gương mặt kiến trúc công trình được kiến lập đơn lẻ theo đòi hỏi của chủ đầu tư hoặc theo thị hiếu riêng của người thiết kế, của người điều hành đã khiến cho mỹ quan kiến trúc thị trấn bị xuống cấp. Kiến trúc của từng thành phố, từng khu cư dân nhìn chung chưa có được phiên bản sắc riêng.

- Cảnh quan thành phố là một toàn thể các tòa tháp kiến trúc, tòa tháp cơ sở cơ sở công nghệ và tự nhiên có quan hệ ngặt nghèo với nhau tạo nên vẻ đẹp của kiến trúc thành phố. Song nhìn chung, việc làm mới và xây dựng thị trấn vẫn nặng về chắp vá không đồng bộ, cơ sở vật chất cơ sở thiếu, xuống cấp, tự nhiên bị xâm phạm, không gian bị ô nhiễm, nên không có được tính hợp nhất trong cục bộ kiến trúc.

- Tại các khu vực vùng quê, phần nhiều các làng phố, khác lạ là những làng phường ven đô đang mất dần những trị giá truyền thống. Các thị tứ, đô thị, khu công nghiệp sinh ra tự phát, bám tham gia nhì bên trục đường chính gây cản trở liên lạc. Chế độ kiến trúc tại các làng, bạn dạng vùng núi đang mất dần phiên bản sắc riêng. Số đông các mẫu nhà dùng tại đây được du nhập trong khoảng các thị trấn đồng bằng. Hiện trạng xây dựng nhà đất vi phạm các hành lang an ninh giao thông, đê nhân tố và chiếm đoạt dụng đất canh tác khá thông thường trong khi những tìm hiểu thiết kế tiêu biểu nhà ở nông thôn của các công ty giải đáp quy hoạch và kiến trúc hầu như vẫn không được cư dân hấp thụ tự nguyện. Cảnh quan không gian thôn dã vốn dĩ rất thuần nhì nay đang lâm vào tình trạng suy thoái về nhiều bình diện.

- Giải đáp thiết kế và sáng tác kiến trúc chưa phục vụ yêu cầu của công đoạn thay đổi. Cho đến 1985, hoàn cảnh kinh tế nước nhà khôn xiết gian truân nên ít nhà cửa được xây đắp. Một vài các tòa tháp tuy được xây đắp theo quy hoạch, ý tưởnrg nhưng hình thức kiến trúc thường túng bấn. Từ sau năm 1986, nhiều nguyên liệu xây dựng và công nghiệp mới được áp dụng đã chuẩn y đổi mới trong trắng tác kiến trúc. Tất nhiên, đa dạng nhà cửa vẫn còn chạy theo chủ nghĩa chế độ, chắp vá, phô trương cụ thể, nhái lại cái cũ. Hình thức kiến trúc nhà ở còn bị phụ thuộc quá phổ quát vào sở thích của chủ đầu tư. Kiến trúc công cộng thiếu bạn dạng sắc, khác biệt là thiếu sự hấp thu có sáng tạo truyền thống của kiến trúc Việt Nam và các thiên hướng kiến trúc quả đât. Trong những năm cách đây không lâu, hình thức kiến trúc các công trình bị lai tạp, đặc biệt là kiến trúc nhà ở và công sở. Nhìn thông thường, trong trắng tác kiến trúc vẫn chưa có công trình lớn, đạt đỉnh cao về chất lượng tương xứng với tầm vóc và đòi hỏi của quá trình đổi mới.

- Việc bảo tồn, tu sửa các di sản kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên có trị giá còn đa dạng bất cập. Công việc này trong thời điểm qua tuy đã được xem xét, nhưng vẫn chưa được bắt đầu nhiều lần và thiếu chuỗi hệ thống, thỉnh thoảng còn bị các tiêu chí trực tiếp sản xuất kinh doanh lấn át nên phổ quát di sản kiến trúc gắn với lịch sử và cảnh quan đã bị xuống cấp, thậm chí còn bị vi phạm nguy hiểm, khiến biến dạng hoặc mai một các trị giá văn hoá và lịch sử vốn có của các công trình theo thời điểm.

Việc bảo tàng kiến trúc cổ lỗ, kiến trúc vùng miền chưa được đon đả hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát an ninh, giữ gìn và phát huy giá trị trong điều kiện thay đổi.

- Ngành lý luận phê bình sáng tác kiến trúc thiếu xác định phương hướng, yếu lý luận và thiếu thông tin trong ngành lý luận phê bình kiến trúc đã có tác động tới chất lượng sáng tác kiến trúc.

Đối tượng để chúng ta nhìn kiếm được thường là sản phẩm kiến trúc sau thiết kế, công việc xây dựng khiến nên tòa tháp kiến trúc hiện hữu, được định vị trong không gian. Công trình đó có thể do doanh nghiệp cá nhân trong nước hay nước ngoài kiến tạo. Đối tượng này phải là một tập thích hợp giá trị nghệ thuật và vật chất bao gồm: cả giấy tờ thiết kế, phiên bản thảo ý nghĩ đó, năng lực xây lắp, khả năng hoàn thiện, trang hoàng, nghĩa vụ bảo trì…. Thế mà, bấy lâu ta thường chỉ nhìn tham gia nhà cửa để phán xét trình độ, kỹ năng hay chê cười tác giả vẽ ra nó mà không nghĩ là đó là kết quả bởi đồng tác giả. Trong lúc kiến trúc sư kiến tạo bị phê, bị bình thì nhà thầu tưởng như vô can. Còn khi tác giả nhận giải thưởng thì doanh nghiệp kiến tạo đứng ngoài cuộc. Vậy nên, về đối tượng phê hay bình kiến trúc cần bàn đến là mối liên kết đầy bổn phận của giải đáp, nhà thầu và có trường thích hợp là cả chủ đầu tư xây đắp nữa.

Trị giá thực chất của kiến trúc được biểu kiến bằng giá trị sử dụng và trị giá nghệ thuật. Nuối tiếc rằng, có lúc, có nơi chúng ta tấn công đồng hoặc riêng biệt hai giá trị này.

Khi thì coi trọng hình thức để xét nét. Có khi chỉ xem đó là cái để dùng chẳng lưu tâm hình thể. Bởi vậy mà bộ mặt thị trấn xấu đi phổ biến mà chẳng ai bắt buộc những công trình xấu cần phải nhân thức nó đang là xấu. Mặc dầu loại công trình này hoàn toàn đồng đẳng, sinh tồn trong không gian thị trấn, thường khi lại chiếm số nhiều, có nơi tới 70 - 80%.

Phần lớn các cuộc trao đổi thường chỉ chú trọng h́nh thức của những công tŕnh có quy mô lớn, tại vị trí dễ nh́n thấy. Những nhà cửa còn lại thường không được giới phê bình ngó tới. Vậy nên cộng đồng loại này thường thoát hiểm. Nhưng chính đó mới là nỗi nhức nhói của thị trấn. Những cuộc trao đổi chẳng đổi mới được gì phổ quát cho việc chăm sóc, khiến cho bạn dạng sắc kiến trúc vn được tôn vinh. Như thế có thể coi là công tác phê bình đang đi trơ khấc tiêu chí cần có?

Năng lực bình và phê yên cầu sâu về chuyên môn, cần có bản lĩnh và nhất là phải được đào tạo trên cơ sở vật chất năng khiếu bẩm sinh về loại nghệ thuật khó khăn chơi này. Thế nhưng, trong khoảng lâu nước ta chưa có ngành nghề học, môn dạy phê bình kiến trúc. Vì thế nhiều khi có bài viết về lĩnh vực này thường rơi vào trạng thái nội dung phổ biến bình thường, thảo luận nhạt nhẽo, không người nào nhớ đến tác giả, và không có gì để mà bàn tiếp. Vậy là rơi tham gia lãng quên.

Bình nghệ thuật và nghệ thuật bình ở nước ta xuất hiện đã có từ rất lâu rồi. Đối với việc bình luận tác phẩm, tác giả ngày xưa nhẹ nhàng mà thâm thúy. Vì vậy, nó giúp ích phổ biến cho người bình và người nghe. Bây giờ, chúng ta thêm phê vào trước bình nên thường nặng nề hà, phản cảm. Nhiều lúc người ta lợi dụng phê bình để vụ lợi tư nhân, mất hết cả tính nhân bản của việc bình phẩm.

Tất nhiên, trong một vài lĩnh vực nghệ thuật, phê bình đi đúng lẽ đời, chỉ tiêu phù hợp đạo thì nó đóng góp lớn cho nghệ thuật của ngành đó sản xuất không xong; và ngược lại… (Chẳng hạn, trong văn chương trong khoảng những năm từ 1936 -1945 đã để lại những ấn phẩm đỉnh cao về nghệ thuật bình phẩm. Trong đó tập “Thi nhân vn” là một ví dụ. Những thành quả nổi tiếng thời ấy và cả sau đó tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Và âm hưởng của công trình đó còn mang tính thời sự. Đặc biệt, những dự báo trong đó về loài người và thành quả đã trở thành những dự báo đúng mực đến kinh ngạc).

Riêng trong trắng tác kiến trúc và nhà cửa kiến trúc của chúng ta hầu như phê chưa thật chuẩn mà bình chưa thật sáng tỏ.

Cội nguồn cho thực tiễn đó có thể bàn thêm trong khoảng những phía nhìn đa chiều (hay còn gọi là tiếp xúc lập thể). Đó là nhìn trong khoảng đối tượng để phê bình; Trị giá của thành quả, tòa tháp; Năng lực lí luận và thực tế của người bình; Văn hoá nhận thức, tiếp thu của người nghe.

Kiếm được thức về phê bình, tiếp nhận phê bình rất cần. Nhưng phê bình không làm cho đủ trọng trách là hướng dư luận tham gia việc điều chỉnh hành vi lệch lạc trong hành nghề kiến trúc sư, trong hoạt động xây dựng, trong đầu cơ. Vì thế chưa thể nói tới việc phê bình có thể đổi mới sự bất cần của một bộ phận chủ nhà lắm tiền, hoặc của đội ngũ những tác giả dễ quên trách nhiệm nghề nghiệp.

Phê bình hay và đúng, tiếp thu góp ý ở mức trọng thị để tự vấn đề chỉnh là văn hoá. Hiện thời, cái tao nhân - bạn dạng hoá về lý luận và phê bình ở ta chưa mấy được trau dồi, chưa được tôn trọng thì còn phải đợi chờ.

Khách quan hơn, công bằng hơn thì quy hoạch, kiến trúc trong 30 năm qua đạt thành công lớn cả về chất lượng, số lượng, cả về hình thức và công năng, là bước tạo ra nổi bật trong cả công đoạn thay đổi và hội nhập. Tuy nhiên, những bế tắc và hạn giễu cợt vẫn còn như đã nêu. Việc nhìn thấy và ghi nhớ chẳng phải để làm cho rõ tính bị động của nó mà căn bản nhận dạng, phân tách căn nguyên để tìm cách đi, bước đi phù hợp hơn trong những năm tiếp theo.

TS. KTS. Lê Đình Tri/TCKTVN


Có thể bạn quan tâm: bơm công nghiệp giá rẻ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét